Thứ Năm, 28 tháng 4, 2011

Mất gì ngày 30 Tháng Tư?

In
Viết bởi Ngô Nhân Dụng   
Thứ sáu, 29 Tháng 4 2011 00:00
Ngô Nhân Dụng 
30-4-01
Từ giữa thế kỷ 20 môn kinh tế học mới bắt đầu chú ý đến luân lý như một tài nguyên; có người gọi thẳng là Love (tình thương), có người gọi là Civic spirit hoặc Civic Culture (tinh thần công dân), hoặc như Albert O. Hirschman từ năm 1970, gọi chung là các tài nguyên tinh thần (moral resources).
Gọi là một tài nguyên, người ta công nhận nó giống như một thứ “Vốn” chung của xã hội, nó có thể giúp gia tăng của cải, sẽ sinh lợi không khác gì các thứ vốn như tiền bạc, đất đai, hiểu biết, vân vân; và nó cũng có thể bị phí phạm, hao mòn, hay được làm cho đầy, cho phong phú thêm.
Dần dần, hầu hết các nhà kinh tế đã đồng ý “tài nguyên tinh thần” rất quan trọng, nên giữ gìn và phải học cách sử dụng sao cho hiệu quả nhất. Một thứ tạo nên tài nguyên tinh thần là Niềm Tin (Trust) trong xã hội. Kinh tế chỉ có thể phát triển nếu mỗi người ký một hợp đồng có thể tin rằng phía bên kia sẽ hết sức thi hành bản hợp đồng đó. Ngay cả những doanh nhân không thích ký hợp đồng, nhưng họ biết đang làm ăn những người đáng tin (quân tử nhất ngôn), khi bắt tay nhau là họ có thể tin nhau rồi, thì việc kinh doanh của họ rất phát đạt. Các Hoa kiều hải ngoại hay làm ăn kiểu đó. Nhưng nếu niềm tin được bảo vệ bằng các định chế chính thức của xã hội, như luật lệ, hệ thống tư pháp sạch sẽ và tòa án công minh, thì thứ tài nguyên đó sẽ giúp cho kinh tế phát triển rất mạnh. Chỉ khi nào chứng kiến những xã hội lạc hậu về kinh tế vì người dân không ai dám tin ai mà cũng không nghĩ người khác sẽ tin mình, thì mới thấy thiếu niềm tin là mất một tài nguyên kinh tế rất quan trọng. Trong các xã hội lạc hậu, mọi người sống ích kỷ không nghĩ đến người khác, không có lòng tôn trọng công ích hơn tư lợi, thì nền kinh tế không thể nào phát triển cao được; vì mọi người khó cộng tác với nhau.
Tại sao có những xã hội mà người ta tạo được tài nguyên tinh thần rất giầu, còn nhiều xã hội thì không? Tài nguyên tinh thần cần được gieo giống, rồi được tưới tẩm, hết thế hệ này sang thế hệ khác. Muốn hiểu diễn trình cấu tạo nên tài nguyên tinh thần, có thể dùng một phương pháp kinh tế học là Game Theory (Lý thuyết Trò chơi). Một câu chuyện nổi tiếng là Chuyện Hai Người Tù (The prisoners dilemma). Ðại khái, có hai người bị bắt, nếu cộng tác với nhau cùng khai vô tội thì sẽ được bị án rất nhẹ, còn nếu nếu phản phúc thì cả hai sẽ bị án nặng nề. Nhưng hai người tù không tin được nhau. Khi suy xét một cách thuần lý, cuối cùng mỗi người tù thấy chọn đường phản phúc thì có lợi nhất, mặc dù cả hai đều bị thiệt. Trong xã hội, mọi người đều biết suy nghĩ như thế. Ðiều này trái ngược với nhận xét chung là trong rất nhiều xã hội người ta vẫn tin tưởng nhau, vẫn cộng tác với nhau. Làm cách nào giải thích được hiện tượng nghịch lý này?
Các nhà nghiên cứu kinh tế và xã hội học đã thấy là có một cách để bảo đảm một người sẽ không phản phúc, là tiếng tăm. Nếu anh bị mang tiếng là hay phản phúc thì sẽ bị mọi người ruồng bỏ, không ai tin anh nữa, đó là một hình thức trừng phạt. Một “định luật” được công nhận là khi một người tham dự vào “nhiều cuộc chơi lập lại rất nhiều lần” (repeated games) thì dần dần họ sẽ sợ bị người chung quanh trừng phạt, do đó sẽ chọn hành vi cộng tác để được tín nhiệm. Có những điều kiện giúp cũng có luật chơi tín nhiệm này: Số người tham dự nhỏ (trong một xóm ai cũng biết ai, phản phúc là tự loại mình); hoặc thông tin về hành vi của mọi người đều dễ phổ biến cho tất cả biết (không cấm tự do thông tin, không có những quyết định trong các phiên họp bí mật); và các người tham dự biết giá trị của những lợi ích tương lai chứ không chỉ chú tâm đến hiện tại. Khi xã hội đã thiết lập được một hệ thống trừng phạt và tưởng thưởng như thế, niềm tin chung sẽ gia tăng. Nếu ngược lại, có lúc hệ thống tưởng thưởng và trừng phạt này bị phá vỡ vì xã hội theo những luật chơi mới, niềm tin sẽ tan mất. Muốn lập lại, phải bắt đầu cuộc chơi lại từ đầu, xây dựng niềm tin lên dần dần, mất nhiều thời gian.
Trước Hirschman có người đã nhận xét rằng Niềm Tin là “một thứ tài nguyên càng sử dụng thì càng giầu hơn chứ không bị hao mòn; nhưng nếu không được đem dùng thì nó sẽ dần dần tiêu tán.” Nó cũng giống như một kỹ năng (skill), chẳng hạn tài chơi đàn, hay nói được một tiếng ngoại quốc. Nó cũng không hiếm hoi như quặng mỏ hoặc trình độ giáo dục.
Albert Hirschman đưa ra một cách nhìn mới. Ông nhận thấy có hai trường hợp khiến tài nguyên tinh thần có thể bị hủy hoại: Một là khi nó không được dùng tới, sẽ hao mòn đi, như người khác đã thấy. Hai là nếu nó bị sử dụng nhiều quá, quá khả năng cung cấp của loài người, thì cũng sẽ giết chết nó.
Hirschman (năm nay 96 tuổi) đã nhìn thấy, từ 1970, 80, tình trạng tài nguyên tinh thần bị hao mòn hay bị hủy diệt, trong cả hai hệ thống kinh tế tư bản và cộng sản. Trong kinh tế tư bản, người ta không chú ý vận dụng tài nguyên tinh thần, vì rất khó đo lường để đưa nó vào phương trình kinh tế. Cho nên, tài nguyên tinh thần có thể bị hao mòn (atrophy) vì mọi người chỉ lấy lợi nhuận làm thước đo thành công. Nếu niềm tin còn tồn tại trong thế giới tư bản, đó là nhờ các định chế pháp luật và các quyền tự do dân chủ, chúng bảo đảm những người cộng tác được thưởng, kẻ phản phúc bị trừng phạt.
Trong hệ thống kinh tế cộng sản thì ngược lại. Họ tận dụng tài nguyên tinh thần, cổ động niềm tin vào chủ nghĩa, vào khả năng giới lãnh đạo; họ không coi niềm tin giữa các cá nhân là quan trọng như một tài nguyên tinh thần; vì tất cả đã được thay thế bằng niềm tin chung vào chủ nghĩa cộng sản. Chỉ cần động viên niềm tin vào đảng cho vững chắc là mọi chuyện sẽ thành tựu. Nhưng hệ thống kinh tế và chính trị cộng sản cổ động niềm tin quá khả năng cung cấp của tất cả mọi người, nhất là các đảng viên. Họ đưa ra những khẩu hiệu, như “Con người mới” của Fidel Castro, “Tự chủ” của Kim Nhật Thành. Ðiều nguy hiểm là sự thành công của cả hệ thống lại tùy thuộc vào tài nguyên tinh thần này. Cho nên họ đòi hỏi, “muốn có xã hội cộng sản phải có con người cộng sản.” Mà một mẫu người lý tưởng theo kiểu các tôn giáo vẫn đề cao như thế thì chỉ có trong tưởng tượng, không xã hội loài người nào đạt được. Hậu quả là hệ thống kinh tế cộng sản tạo ra một xã hội sống giả dối, dùng nhiều mặt nạ khi sống với nhau. Lối sống đó tất nhiên phá hoại tất cả tài nguyên tinh thần. Tình trạng tài nguyên tinh thần bị hao mòn là một phần nguyên do đã gây ra hậu quả kinh tế trì trệ rồi sụp đổ.

Ðảng Cộng Sản ở hai nước Trung Quốc và Việt Nam đã “đổi mới kinh tế.” Họ đã khai thác ngay được một thứ tài nguyên lớn, là sức người. Chỉ cần họ nới lỏng guồng máy kiểm soát kinh tế; cứ cho người dân được thêm một chút tự do làm ăn là khả năng sản xuất của người ta chắc chắn sẽ tăng lên. Nhưng cả hệ thống chính trị của hai nước vẫn chưa nghĩ đến chuyện khôi phục lại các tài nguyên tinh thần đã bị mất. Ngược lại, việc họ tìm cách bảo vệ quyền lợi các đảng viên bằng hệ thống tham ô toàn diện còn làm cho các tài nguyên tinh thần bị hủy hoại mạnh và nhanh hơn trước. Tình trạng đạo đức giả chỉ tăng lên chứ không giảm đi, vì nó thể hiện từ cấp cao nhất: lý thuyết, tư tưởng chính thức của guồng máy cai trị. Họ vẫn nói đi theo chủ nghĩa Cộng Sản, nhưng trong thực tế họ pha trộn một hệ thống tư bản thời hoang dã với một chế độ công an trị thời phát xít. Miệng đề cao công ích nhưng ai cũng chỉ lo vơ vét tư lợi. Tham ô và nhũng lạm quyền hành được phơi bầy công khai, trâng tráo, trong khi nhà nước vẫn hô hào chống tham nhũng. Tài nguyên tinh thần đã bị phá hoại toàn diện chứ không phải chỉ bị hao tổn như khi còn theo kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Một độc giả Người Việt mới viết cho tòa soạn kể chuyến đi thăm quê hương mấy tháng. Vị độc giả nhận thấy guồng máy chính quyền bóc lột dân; chuyện đó nhiều người đã nói. Nhưng ông (hay bà) còn thấy, “người dân cũng bóc lột lẫn nhau vô tội vạ, đối xử với nhau bằng những cái mặt nạ nhân nghĩa giả dối trơ trẽn!”
Hồi đầu Tháng Ba năm 2011, ký giả Carl Robinson sau khi thăm Việt Nam, mới nêu một nhận xét: “Sau gần 60 năm cai trị của đảng Cộng Sản ở miền Bắc và hơn 35 năm ở miền Nam, tất cả người Việt Nam ngày nay theo chủ nghĩa cá nhân tột cùng. Thay vì tinh thần hướng về cùng một mục đích chung và đoàn kết với nhau thì bây giờ ai cũng chỉ lo cho bản thân mình, như tâm trạng sauve qui peux (ai chạy được thì thoát, tiếng Pháp trong nguyên văn)...” Robinson cho biết ông đã đi khắp nơi, gặp rất nhiều người ở Việt Nam trong 18 tháng trời.
Không biết Carl Robinson có đọc Albert O. Hirschman hay không, nhưng ông mô tả tình trạng ở Việt Nam hiện nay giống hệt điều mà nhà kinh tế đã nêu ra trước đây mấy chục năm: Lạm dụng tài nguyên tinh thần sẽ hủy hoại nó. Ông kể đã thấy người Việt Nam được đảng và nhà nước đối đãi giống như các học sinh trong các trường mà trong đó các vị giáo sĩ dạy trẻ những quy luật không bao giờ được ai theo cả: “Tất cả mọi người được coi như trẻ nít, được học giáo lý suốt ngày bằng những khẩu hiệu, các ngày lễ lạt, các giấc mơ vĩ đại. Khi tôi than phiền với một số người ở một thành phố ven biển gần đây về những bài phát thanh tuyên truyền mỗi sáng, một người cười lớn nói, Ðó chỉ là tuyên truyền thôi; chúng tôi không bao giờ nghe cả!”
Ðó là một cách tiêu diệt tài nguyên tinh thần một cách có hệ thống. Muốn xây dựng lại được vốn liếng tinh thần mà tổ tiên đã xây dựng trong mấy ngàn năm trước người Việt Nam biết sẽ phải làm gì. Phải thay đổi cách sống chung với nhau, tất cả mọi người. Một chế độ đã hủy hoại tài nguyên tinh thần của dân tộc hơn một nửa thế kỷ qua, không có lý do gì để tiếp tục việc tàn phá đó nữa.
Không phải ai cũng ở Việt Nam lâu ngày, được đi nhiều, thấy nhiều, gặp gỡ và chứng kiến nhiều cảnh sống để kết luận như ký giả Robinson. Nhưng chắc phần lớn mọi người quan sát đời sống ở nước ta hiện nay đều thấy nền tảng tinh thần, đạo đức đã bị xói mòn khá nặng nề trong mấy chục năm qua. Ðó là một sự mất mát lớn.
Tài sản mất sẽ tạo lại được. Của cải mất rồi có lúc lại làm ra, khá nhanh. Tự do bị mất, mất rất nhanh, ngay lập tức sau ngày 30 Tháng Tư, nhưng thế nào cũng sẽ đòi lại được, cũng không lâu lắm đâu. Nhưng có một thứ đã mất mất, mất từ từ chậm chậm; mà muốn phục hồi được rất khó, đó là nền tảng tinh thần của xã hội. Cái vốn tinh thần phải hàng ngàn năm mới dựng lên được. Khi muốn phá, chỉ cần một thế hệ cũng đủ. Muốn dựng lại, cần vài ba thế hệ mới hy vọng xong.
Vậy chúng ta đã mất gì sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975? Nếu nhìn lại lịch sử cả nước Việt Nam thì câu hỏi không còn là ngày 30 Tháng Tư nữa. Bởi vì chỉ có người Việt ở miền Nam bắt đầu thấy các tài nguyên tinh thần bị xói mòn từ ngày đó; còn đồng bào ở miền Bắc đã bị mất mát như vậy từ một phần tư thế kỷ trước, tính đến nay hơn 60 năm rồi.

Phải chăng kẻ chiến thắng cam tâm tình nguyện đi làm “Lao Nô” cho quân thù?

In
Viết bởi Hà Long   
Thứ sáu, 29 Tháng 4 2011 00:00
Sài Gòn – Càng gần đến ngày 30/4 những người "chiến thắng", đích danh gọi là cộng sản Bắc Việt thì họ sẽ sơn son thếp vàng lại tấm bảng “PHONG THÁNH” cho cuộc “Đại Thắng Mùa Xuân 1975” thật thần thánh “Chống Mỹ, cứu nướcGiải phóng Miền Nam”, đã đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào. Đúng như thế, Mỹ đã phải tủi nhục thân tàn ma dại chạy trối chết thoát khỏi vũng lầy chiến tranh VN; còn bọn Ngụy, đích danh gọi là Quân Đội VN Cộng Hòa và chính quyền tự do dân chủ Miền Nam bàng hoàng lo sợ chịu thân phận của kẻ chiến bại và phải chấp nhận tất cả mọi sự trừng trị của cs Bắc Việt. Hình như sự trừng phạt này vẫn còn tiếp tục… kéo dài đến 36 năm nay. Chỉ cần lật một trong 700 tờ báo lề phải, như tờ QĐND trong những ngày cuối tháng 4 là người đọc thấy họ đang rỉ rả về những luận điệu thù hận này.
Phóng viên chiến trường người Anh, ông John Pilger thuở ấy ghi lại nhật ký chiến trường vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975 tại thủ đô Sài Gòn. Lúc ấy vị đại sứ Mỹ Graham Martin xuất hiện trên truyền hình Sài Gòn, cam kết Washington sẽ không rời Việt Nam. Lời cuối cùng của ông Martin: “Tôi, Đại sứ Mỹ, sẽ không chạy trốn lúc nửa đêm. Bất kỳ ai cũng có thể tới nhà tôi và chứng kiến tôi chưa thu dọn hành lý”.
Một lời trấn an hèn nhát của vị đại diện chính quyền Washington trước khi đào tẩu. Phóng viên Pilger cho biết thêm về một tín hiệu triệt thoái rút quân toàn diện của quân đội Mỹ vào ngày 29/4/1975 khi lực lượng quân đội Mỹ cho phát sóng Radio mật hiệu di tản bằng bản nhạc Giáng Sinh bất hủ do ca sĩ nổi danh Bing Crosby hát: ” I’m dreaming of a white Christmas “ – (Tôi mơ ước về một Giáng Sinh tuyết) thì một người bạn hữu của nhà phóng viên Pilger đã quyết định ngay lập tức: “OK, chạy được rồi đấy!”. (Một thông báo về di tản được bí mật ghi ra như sau: mang theo hai bộ quần áo để thay đổi, một áo mưa, một bộ dụng cụ may vá, một cái ô dù, một cái mở hộp, thuốc phòng chống côn trùng, giấy chứng nhận kết hôn…). Cuộc di tản căng thẳng chớp nhoáng và cuối cùng trên nóc nhà tòa đại sứ Mỹ đã đưa được khoảng 7.000 người bằng trực thăng ra khỏi VN, gồm 1.300 người Mỹ và 5.500 người Việt trong vòng 18 tiếng đồng hồ.
Thế là hết! Chấm dứt cuộc tham chiến của Mỹ với người bạn Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30/4/1975. Miền Nam Việt Nam đã bị bức tử!
Thời gian qua mau, đã 36 năm rồi! Thời gian của một nửa đời người sống trên hành tinh này! Bắc Nam đã thống nhất, nhưng đến ngày kỷ niệm thứ 36, thay vì có thể kể cho nhau nghe những từ ngữ yêu thương, hòa giải, nối kết tình anh em giữa hai miền thì người Miền Nam vẫn còn phải đón nhận những mặc cảm của kẻ chiến bại, vẫn còn là ngụy quân, ngụy quyền, bù nhìn tay sai, phục vụ cho âm mưu thực dân mới, những từ ngữ Mỹ cút Ngụy nhào vẫn còn oang oang nơi cửa miệng của kẻ tiếp tục say men chiến thắng để chủ đích kết án bản chất hiếu chiến phản động cho người Miền Nam. Điều ấy chẳng khác chi một bản giáo điều bảo thủ mù quáng nhằm nuôi dưỡng thù hận của quá khứ chiến tranh!
Đến nay, chưa có một luận đề tin tưởng và bao dung nào được nói về sự hòa giải bình đẳng của dân tộc ngoài cách đe dọa cải tạo hoặc bắt đi tù học tập từ năm 1975 tại Việt Nam. Nước Đức sau thống nhất, các nhà lãnh đạo chính trị cũng như tôn giáo, xã hội quá khoan dung, thay vì trả thù hoặc kết án kẻ chiến bại, tất cả mọi người đồng tâm đưa tay ra kết đoàn nâng đỡ và xây dựng đất nước.
Tại Việt Nam, chờ mãi đến 35 năm sau mới có một người can đảm ký tên Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ gửi thư lên Quốc Hội VN vào ngày 30/8/2010: “Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam cộng hòa”. Lời kiến nghị này chẳng khác những gì người Đức giữa Đông và Tây đã thực hiện thành công trong 20 năm vừa qua cho dân tộc họ. Luật sư Cù Huy Hà Vũ – người đang được thế giới chú ý về bản án tù bất công 7 năm, đã đưa ra luận đề thuận lòng người, ít nhất cho những người đã được hưởng cuộc sống tự do của chế độ VN Cộng Hòa: “Dù là tất yếu để Non – Sông Việt Nam liền một giải, để Độc lập Dân tộc được toàn vẹn thì đó vẫn là một cuộc Nội chiến, một cuộc chiến tranh Huynh – Đệ tương tàn giữa những người Việt Nam.
Vì vậy, một khi chiến tranh chấm dứt thì xóa bỏ hận thù giữa những người Việt từng ở hai bờ chiến tuyến hay Hòa giải Dân tộc là Nghĩa vụ, và hơn thế nữa, là Đạo lý của mọi người Việt Nam. Và trong sự nghiệp Hòa giải này – tôi khẳng định – vĩ đại không kém cuộc chiến vừa kết thúc nhằm thống nhất đất nước – những người chiến thắng phải đi bước trước, mà giang tay ôm vào lòng những người anh em chiến bại để tỏ chữ Hiếu đối với Mẹ chung – Tổ quốc, để mọi người Việt dẫu chính kiến có khác biệt lại sum họp Một Nhà!
… Trớ trêu thay, Ban lãnh đạo của nước Việt Nam thống nhất sau 30 năm chiến tranh chẳng những đã không học tập tấm gương hòa giải dân tộc của Hồ Chí Minh, mà ngược lại, còn khoét sâu vết thương của dân tộc bằng việc tập trung “cải tạo” trong nhiều năm trời cả trăm nghìn quân nhân, viên chức Việt Nam cộng hòa, bằng kỷ niệm liên tục 35 năm nay “Ngày giải phóng Miền Nam” đậm chất “thắng – thua”… đẩy không ít người Việt thuộc chính quyền cũ rơi vào vòng xoáy của sự thù hận với hệ quả là một số người bị chính quyền mới kết vào “tội xâm phạm an ninh quốc gia”!
Một khúc mắc thời đại, hay đúng hơn là một vết thương nhiễm trùng chưa có thuốc kháng chế bám chặt trên cơ thể của 3 triệu đảng viên csVN từ 36 năm qua. Vết thương này, cho đến nay không ai được phép đụng vào cứu chữa cho nó. Ngày nay Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ tìm cách tiếp cận đến thân chủ để mổ xẻ ung nhọt độc hại này: “Và hận thù ấy lại dẫn đến chia rẽ khác không kém phần đau đớn, lần này ngay trong nội bộ những người đã ca khúc khải hoàn, bởi có mấy gia đình Việt Nam không có người thân ở bên kia chiến tuyến.
Kinh khủng hơn nữa, chính những hận thù và chia rẽ dân tộc ấy đang từng ngày, từng giờ tiếp tay cho nguy cơ Việt Nam bị Bắc thuộc lần thứ Tư và lần này e vĩnh viễn!”. - Hết trích.
Theo thống kê, người Việt Nam đang sống trong giải đất hình chữ S với dân số 85 triệu thì gần 2/3 đã được sinh ra sau chiến tranh VN – hai thế hệ trẻ người Việt Nam đã sinh ra sau 1975, như thế trên dưới 50 triệu người VN chưa bao giờ nghe tiếng súng hoặc tiếng bom nổ trong đời của mình, và họ không phải nghĩ đến cảnh cầm súng bắn vào nhau nơi chiến trường. Tại sao phải gieo lòng thù hận của quá khứ chiến tranh vào tâm trí của hai thế hệ trẻ này?! Có thể nói dân tộc Việt Nam sau sự đô hộ 100 năm của thực dân Pháp, bây giờ là lúc ngưng tiếng súng hoàn toàn để tạo thành một khối, gói trong cùng một bọc để có thể sống trong hòa bình xây dựng đất nước hùng mạnh.
Trong lúc này tư tưởng hòa giải thật lòng, từ con tim giữa hai miền Nam Bắc của Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ cần thiết hơn bao giờ hết cho dân tộc Việt Nam.
Minh chứng đã có của dân tộc Đức, họ chỉ cần thời gian 20 năm sau thống nhất đã thành công xây dựng đất nước tiến lên và nước Đức đang trở thành một quốc gia giàu mạnh nhất trong khối Liên Hiệp Âu Châu.
Phát triển đất nước Việt Nam thời hiện tại bằng kinh tế mũi nhọn Vanashin?
Còn Việt Nam với chính sách toàn quyền đảng trị của csVN sau 36 năm thống nhất chúng ta thực đã đủ sức vươn lên cao như sức mạnh của con rồng Á Châu? Chúng ta đã được phép tự hào sánh vai song bước cùng các quốc gia bạn bên cạnh và trong vùng? Được gia nhập WTO thay vì gia tăng được sức mạnh từ đôi tay của mình hay luôn phải cúi đầu ngửa tay nhận viện trợ của người ngoài nhằm tiếp tục xóa đói giảm nghèo?

Sức mạnh của thế giới được tính theo sự tăng trưởng kinh tế và sự nâng cao đời sống của người dân. Dường như người quốc nội cũng như những nhà đầu tư ngoại quốc đang nhìn thấy những công trình mũi nhọn của VN cứ như con tàu thả dốc không phanh xe. Tên gọi Vinashin với số nợ kinh hoàng hơn 86.000 tỷ đồng, tiếp theo với các tin tức trong những ngày vừa qua đăng tải về vụ Công ty Cho thuê tài chính ALC II liên quan đến ngân hàng Agribank cũng đang trên đường phá sản giống như dập khuôn với Vinashin vì thua lỗ 3.000 tỉ đồng. Được kể thêm phải nêu ra Tổng công ty xăng dầu đang thâm thủng ngân quỹ hàng ngày tỉ đồng chỉ trong vòng 3 tháng. Thua lỗ cứ gia tăng như cơn sóng thần Tsunami cuốn vào nền kinh tế VN, ví dụ năm 2010 công ty Điện lực Việt Nam (EVN), một tập đoàn lớn của Nhà nước đã thông báo lỗ hơn 8.000 tỉ đồng. Thế mà vào đầu tháng 4/2011 tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) cho biết, EVN còn nợ tập đoàn này khoảng 5.000 tỉ đồng. Chuyện nợ ngàn tỉ cứ như trò đùa chẳng khác đưa tay mua vài bó rau trong thời bão giá: đã lỗ thật to làm sao còn sớm trả được nợ? Tiếp theo vào đầu tháng 3/2011 Thanh tra Chính phủ cho biết 5 ngân hàng to đã có nhiều sai phạm gây thất thoát 160 tỷ đồng cho nhà nước.
Câu chuyện nợ nần của VN chưa kịp đến hồi kết thúc thì cách đây vài hôm, 20/4/2011 báo chí lại khui thêm ra việc Tập đoàn Công nghiệp Than khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) đã lên tiếng về việc EVN nợ mình 1.600 tỷ đồng, thời điểm mang nợ tính đến 31/3/2011. Như vậy, trong khoảng một thời gian ngắn tập đoàn Điện lực Việt Nam đã bị phanh phui ra số nợ lớn của PetroVienam và Vinacomin, cộng chung nợ của 2 nơi là 6.600 tỷ đồng. Nếu tính thêm vào số thua lỗ 8.000 tỉ đồng trước đó sẽ tổng cộng ra một con số rất nghiêm trọng 14.600 tỉ đồng. Tập đoàn EVN luôn được mệnh danh là đứa “con cưng” của nền kinh tế Việt Nam và đang “ngập đầu ngập cổ” trong nợ nần.
Lại một đứa “con cưng” khác của nền kinh tế nước nhà, Công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) đã thua lỗ đậm trong 3 tháng đầu năm. Báo SGTT đưa tin: sáng nay 4/4, bà Đàm Thu Huyền, phó tổng giám đốc tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) cho biết, thống kê nhanh của đơn vị này cho thấy, tính đến hết ngày 31/3, Petrolimex đã lỗ 2.650 tỉ đồng trong quý 1. Tính ra mỗi ngày công ty Petrolimex đang lỗ một khoản tiền khổng lồ trên 29 tỷ đồng. Nhà nước đang giữ 75% cổ phần của tổng công ty này.
Lãnh đạo Bộ Tài chính, Bộ trưởng Vũ Văn Ninh cũng thừa nhận một sự phá sản có hệ thống từ những tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước thua lỗ khi ông cho biết thống kê cách đây 2 năm trước: Năm 2009, cả nước có 1.358 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI hoạt động. Tuy nhiên, có tới 56% trong số này báo cáo làm ăn thua lỗ. Hầu như họ đều là những doanh nghiệp nhà nước hoặc có cổ phần của nhà nước.
Nhìn thất bại thê thảm như thế người ta có thể nói rằng một đằng do quản lý kinh tế, tài chính yếu kém, đằng khác phải có một động cơ to lớn đứng sau lưng, đó là một màng nhện rối mù nhằm hưởng lợi chia chác miếng bánh với nhau hoặc táo tợn tham gia vào đục khoét tham nhũng, rửa tiền hoặc lấy tiền nhà nước làm của riêng.
Sự tụt dốc về kinh tế đang đè nặng lên nợ công của Việt Nam, năm 2010 đã đạt đến mức 56,6% GDP: tổng sản lượng quốc gia. Mức nợ công kỷ lục của VN dưới triều đại của TT Nguyễn Tấn Dũng. Con số này so sánh với nợ công của Hy Lạp khoảng 1/3. Đây là một tiếng chuông báo động cho nền kinh tế VN, dù rằng nhiều chuyên gia kinh tế VN vẫn kiên định số nợ công của VN còn nằm trong ngưỡng cửa an toàn. Người bi quan cho rằng nợ công ở Việt Nam đang tăng nhanh và sẽ trở thành căn bệnh “kinh niên” của nền kinh tế. Đàng khác những tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước cứ tiếp tục thua lỗ – có nơi đã tuột dốc đến 3 năm rồi – thì lãi xuất của nợ công rõ ràng càng tăng lên cao.
Tình hình kinh tế lụn bại chưa từng xảy ra đang làm cho người dân VN xoay sở rất khó khăn trong thời bão giá trầm trọng này. Nạn lạm phát đang từ 8,93, nay trong tháng 3 đã phi mã tới mức độ báo động 13,89% khiến cho Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế phải liên tục cảnh báo nhà nước csVN. Nơi đang đoạt giải quán quân gây sốc về lạm phát là TP Sàigòn với 14% so với năm vừa qua và cũng là mức cao nhất kể từ tháng 5/2008. Lại thêm một kỷ lục mới về lạm phát của TT Nguyễn Tấn Dũng khi ông hãnh diện đưa ra chỉ tiêu lạm phát chỉ đến ngưỡng 7% cho năm 2011. Ngoài ra nguồn ngoại tệ dự trữ của năm 2010 là 25,8 tỉ Đôla, bây giờ đã bốc hơi nhanh chóng mất đi một nửa còn 12,2 tỉ trong đầu năm 2011. Công ty xếp hạng tín nhiệm về đầu tư Moody’s Investors Service Inc. cảnh báo rằng nếu nguồn ngoại tệ dự trữ tiếp tục giảm sẽ làm mất cán cân cân bằng kinh tế tại VN.
Nếu tính thêm nợ nước ngoài chúng ta sẽ thấy con số cứ vùn vú tăng lên cao cho nhà nước VN. Vào tháng 1/2011 Bộ Tài chính đã công bố bản tin nợ nước ngoài số 6 và cho biết trong năm 2010 VN đã vay thêm 1 tỉ USD, nâng tổng số nợ lên 29 tỉ USD, chiếm 42,2% GDP. Số tiền lãi phải trả cho chủ nợ nước ngoài thì Việt Nam phải cần trên 4 tỉ USD, tương đương 80.000 tỉ ĐVN để hoàn thành số nợ cho năm 2011. Các nhà kinh tế nhìn ra số tiền này đang chiếm đến 11,9% tổng chi ngân sách của VN.
Nhà nước csVN luôn có một biệt tài chạy chữa theo kiểu đột phá “vỡ chỗ nào đắp ngay chỗ đấy” hoặc là “đi tắt đón đầu” trong cảnh “dầu sôi lửa bỏng” đang làm cho cuộc sống của người dân điêu đứng lầm than về bão giá: thực phẩm, điện, nước, gas xăng dầu, nhà cửa, thuốc men, v.v… tăng lên như phi mã và cộng thêm với đồng tiền VN trượt giá. Dân nghèo cứ phải thắt lưng buộc bụng sống vất vưởng cho qua ngày.
Tiện nói về lạm phát chúng ta cần biết thêm một chút về Hy Lạp và Ireland. Tại Hy Lạp mức lạm phát trong năm 2010 tăng lên 5,4%, mức cao nhất từ 13 năm nay. Và Ireland cũng trong năm 2010 nạn lạm phát phi mã lên 5,6%, khi ấy trong khi khối Liên Minh Âu Châu đồng lòng lấy tiêu chuẩn ở mực cao nhất là 3%. Việc gì đã đến với hai quốc gia này thế giới đã biết tỏ tường: bị phá sản toàn diện, dân chúng lầm than với bão giá. Như thế, mức báo động đỏ 13,89% vượt kỷ lục lạm phát ở VN có làm cho người dân lo sợ không? Và VN đang tiến dần đến bờ vực thẳm phá sản chăng?
Đọc được 2 bình luận trong báo nhà nước, tờ mạng Vietstock (Thông tin dữ liệu tài chính kế toán kinh tế VN) vào ngày 20/04/2011 với tựa đề Lạm phát của Việt Nam đứng thứ 2 thế giới cho thấy tình hình kinh tế hiện tại rất khẩn trương. Nhìn vào các nước trong khu vực tại châu Á, họ chỉ có lạm phát từ mức 0 đến 6% mà thôi.
Tại diễn đàn mở của báo Vietstock chúng ta đọc được những bức xúc hiện tại của người dân, ví dụ điển hình qua:
san (20/04/2011 – 14:44): Bao nhiêu năm liền gần đây lạm phát VN luôn ở mức quá cao, dân nghèo càng ngày càng khổ, mà sao không thấy ai phải chịu trách nhiệm nhỉ?
Đỗ Trọng Tường (20/04/2011 – 12:22): Hoan hô VN ta đứng hạng nhì thế giới (về lạm phát). Thật là OAI – HOÀNH TRÁNG và vinh dự cho VN ta. Như vậy ta có đi ra ngoại quốc thì thế giới sẽ phải NGẢ NÓN mà kính nể TA chứ. Đây là một minh chứng hùng hồn cho sự TÀI LÃNH ĐẠO và điều hành kinh tế của đất nước. HY VỌNG rằng trong thời gian tới TA phải Đứng hạng 1 thế giới, thế mới thật là OAI hoàn hảo.
Trở về đống sắt vụn khổng lồ Vinashin, một điều thú vị khi tìm được các tài liệu của các năm cũ, một chi tiết cho chúng ta thấy nợ quá hạn của Vanashin vào năm 2008 khi được thanh tra kiểm đến chỉ là một con số rất nhỏ không đáng lo ngại cho một mũi nhọn kinh tế nhà nước hàng đầu: 3.812 tỉ đồng nợ. Đùng một cái, như cơn sóng thần Tsunami ụp đến, chỉ qua 2 năm sau tiền nợ đã trở thành 86.000 tỉ đồng. Kỷ lục của Việt Nam!
Một chi tiết khác chúng ta cần biết, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước VN, tính đến 31/12/2008, tổng nợ tín dụng của 7 Tập Đoàn mũi nhọn quốc gia (Dầu khí, Than khoáng sản, Cao su, Dệt may, Công nghiệp Tàu thủy, Điện lực, Bưu chính Viễn thông) là 128.786 tỉ đồng, tăng nợ lên 20,54% so với cuối 2007, chiếm gần 10% so với tổng nợ tín dụng đối với nền kinh tế VN ở cùng thời điểm.
Như thế, những món nợ và thua lỗ của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước kể trên có thể tuột dốc theo dấu vết của chiếc tầu mũi nhọn Vinashin không? Thời gian sẽ là mức đo chính xác nhất cho họ và cho nhà nước csVN!
Cuộc cứu nguy nền kinh tế VN bằng cách xuất khẩu lao động hoặc là buôn nô lệ?

Theo cách nhìn của chính quyền csVN, qua cuộc Hội thảo Đánh giá thực trạng lao động đi làm việc ở nước ngoài đã trở về Việt Nam vừa diễn ra ở Hà Nội thì chương trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn (Sic!), nhằm góp phần giải quyết nhiều vấn đề của lao động xã hội như giải quyết việc làm cho người dân.
Cách định nghĩa này xem thật mỹ miều và mang tính nhân văn kinh tế. Kế hoạch cứu nguy nền kinh tế này đã được thực hiện trong nhiều năm nay. Lý do chính đáng là lợi nhuận quá to lớn cho người ban hành luật về nó, còn công nhân đi lao động cũng có dịp cải thiện cuộc sống kinh tế cho riêng mình và gia đình, điều này không ai có thể phủ nhận về việc mang sức lực và mồ hôi đổi lấy cơm ăn áo mặc của họ. Nhiều người cũng đã dựa vào đó để đạt được thành quả tốt đẹp.
Một con số thống kê chính thức làm cho người đọc thấy được lợi nhuận đang nằm trong tay của nhà nước csVN. Theo báo cáo của Quỹ hỗ trợ XKLĐ thuộc Bộ LĐ-TB-XH vào tháng 3/2009 mở mắt cho chúng ta thấy một siêu lợi nhuận như sau: “… Từ năm 2004 (thời điểm thành lập) đến nay, Quỹ hỗ trợ XKLĐ đã thu tới hơn 92 tỷ US (Đôla Mỹ) nhưng đến nay Quỹ này mới chi hơn 2,4 tỷ. Theo Quyết định số 163/2004/QĐ-TTg, Quỹ hỗ trợ XKLĐ thuộc Bộ LĐ-TB-XH nhằm thực hiện việc phát triển thị trường lao động ngoài nước; nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của lao động VN trên thị trường lao động quốc tế; hỗ trợ rủi ro cho người lao động và doanh nghiệp trong hoạt động XKLĐ.”
Một cú làm ăn nhẹ nhàng, không tốn sức, giầu nhất mà lại nhàn nhất, chẳng cần phải bỏ vốn đầu tư mà siêu lợi nhuận mang về hàng tỉ Đôla Mỹ, hơn hẳn rất nhiều các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước.
Vì thế khi trao đổi với Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 23/3, ông Đào Công Hải, Phó Cục trưởng Cục quản lý lao động ngoài nước, Bộ LĐ-TB-XH khẳng định trong năm 2011, có thể hoàn thành chỉ tiêu đưa 87.000 lao động đi làm việc tại nước ngoài.
Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-XH), năm 2010, các doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động Việt Nam đã đưa lao động đi làm việc ở hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, với 85.546 lao động, đạt 100,64% kế hoạch, tăng 16,4% so với năm 2009.
Theo đánh giá của Cục Quản lý Lao động ngoài nước, hầu hết lao động nghèo đang có việc làm khá ổn định ở nước ngoài với mức thu nhập bình quân 4 triệu đồng đến 5 triệu đồng/tháng ở thị trường Malaysia; 6 triệu đồng đến 7 triệu đồng ở Libya, UAE và 15 triệu đồng đến 20 triệu đồng/tháng ở Nhật Bản, Hàn Quốc.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết con số của năm 2010 như sau:
28.499 lao động đi Đài Loan
11.741 lao động đi Malaysia
8.628 lao động đi Hàn Quốc
5.903 lao động đi Lào
5.242 lao động đi Libya
5.241 lao động đi UAE
4.913 lao động đi Nhật Bản
4.725 lao động đi đến các thị trường khác là
3.615 lao động đi Campuchia
3.124 lao động đi Macao
2.729 lao động đi Ả rập Xê út
1.204 lao động đi Bahrain
Cũng theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội báo cáo bảng thống kê từ năm 2007 đến tháng 6/2010 có 282.106 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chính thức, trong đó họ đi đến các quốc gia làm việc:
89.887 lao động đi Đài Loan
39.817 lao động đi Malaysia
39.382 lao động đi Hàn Quốc
32.196 lao động đi Khu vực Trung Đông
19.590 lao động đi Nhật Bản
12.092 lao động đi Khu vực châu Phi
Nhìn con số 282.106 lao động chính thức (chưa tính thêm vào con số lớn lao động chui) để có đủ hồ sơ nhận việc làm cũng như để xuất cảnh, chi phí cho cò, cho các công ty có chức năng xuất khẩu lao động, cho chính quyền địa phương, các tòa đại sứ, vé máy bay, v.v… Đổ đồng mỗi bộ hộ sơ người lao động phải ứng trước cả 10.000 USD, có chỗ việc làm tốt phải chi nhiều tiền hơn. Điều này đã mang lại gần 3 tỉ USD, so sánh hơn một nửa số nợ khổng lồ của đống sắt vụn Vanashin. Một sáng kiến buôn nô lệ của thời đại mới như là cách thức nhằm tăng cường kinh tế cho họ. Ngoài ra, hàng năm phải cộng thêm số tiền gửi về cho gia đình của những người đi lao động nước ngoài khoảng 2 tỉ USD (số ước tính qua các ngân hàng, con số gửi ngoài có thể lên cao hơn nữa).
Báo chí Mỹ phanh phui ra vụ “Lao Nô” Việt Nam tại Mỹ vào ngày 15/4/2011

Tuy nhiên bài toán cho sự bền vững của kế hoạch đưa người đi xuất khẩu lao động vẫn chưa thể giải quyết vẹn toàn, nếu ký giả Lise Olsen tờ báo Mỹ của Housten Chronicle, Texas phát hành ngày thứ sáu, 15/4/2011 không viết về tệ nạn buôn người lao động bất hợp pháp từ VN với tựa đề dựa theo bản dịch của anh Ba Sàm: „Họ là những “Lao Nô nhập cư” bị các công ty của Mỹ lừa? Công nhân Việt cáo buộc các công ty ở bên nhà đã bóc lột họ“. (Were they ‘indentured servants’? Cheated by U.S. firms, Vietnamese allege homeland exploited them). Một bài báo dài lột tả rõ ràng những chi tiết đen tối đứng đằng sau sân khấu lấy tên Xuất khẩu Lao động của nhà nước csVN.
Vị thẩm phán của Quận Harry đưa ra quyết định một khoản tiền bồi thường chưa có tiền lệ là 60 triệu Đôla cho những thợ hàn người Việt được tuyên bố là đã bị các công ty cung ứng lao động của Mỹ bóc lột.
Đơn kiện xác định thủ phạm là hai công ty lớn của Việt Nam, cả hai công ty này đều do nhà nước (VN) sở hữu một phần: Công ty Dịch vụ và Đầu tư Thương mại, tên viết tắt là Interserco, và Tổng công ty Công nghiệp Ô tô, tên viết tắt là Vinamotors.
Luật sư của các công nhân này, Tony Buzbee, cho rằng các công ty có quan hệ với chính phủ Việt Nam nói trên đã cố tình tuyển dụng lừa đảo để xuất khẩu rất nhiều người lao động và bóc lột họ theo cách chiếm đoạt số tiền tiết kiệm của họ rồi đưa họ sang làm việc tại những công ty của Mỹ chỉ muốn thu lợi từ những nhân công “chung quy chỉ là những lao nô nhập cư.” Đơn kiện lên tòa án liên bang này đòi một khoản tiền bồi thường nữa là 100 triệu đô.
Một điều hèn hạ theo thói quen làm việc cẩu thả vô trách nhiệm của các vị đại diện của nhà nước csVN tại nước sở tại- nơi nào cũng thế, họ trốn tránh gặp gỡ báo chí. Tờ báo Housten Chronicle cho độc giả Mỹ biết thêm tình tiết:
Nhân viên tại tòa lãnh sự quán của Việt Nam ở Houston đã không nhấc máy trả lời những lời cáo buộc và những cuộc gọi tới tòa đại sứ Việt Nam ở Washington rồi được hướng dẫn là phải gọi tới lãnh sự quán ở Houston. Phát ngôn viên của tòa đại sứ đã không nhấc máy trả lời các cú điện thoại gọi tới hôm thứ Tư.
Lý do thưa kiện được tờ báo địa phương này viết rất rõ ràng:
Năm 2008, người lao động muốn được tuyển dụng phải trả ngay một khoản thủ tục phí lên tới 15.000 đôla – số tiền này được gom từ tiền thế chấp nhà cửa, bán phương tiện làm ăn sinh sống và vay mượn tiền tiết kiệm cả đời của những người họ hàng. Để đổi lại, họ được hứa hẹn sẽ nhận được  tổng số tiền công vào khoảng 100.000 đôla cho một hợp đồng kéo dài 30 tháng.
Sau khi sang tới Mỹ, những công nhân này được đưa tới sống trong “những ngôi nhà như dành cho súc vật”, “bị đối xử như những lao nô nhập cư” và bị sa thải sau 8 tháng khi chính các công ty môi giới này dự định thay họ bằng những chuyến hàng mới và do đó là những khoản thanh toán thủ tục phí mới, theo các cuộc phỏng vấn và theo đơn kiện được đệ trình lên tòa án liên bang hàng quận ở Galveston.
“Đây là cường quốc và chúng tôi không thể tin nổi, rút cục chúng tôi đã bị lừa như thế này, công ty đang lừa chúng tôi,” Ngo Ba Chin, một người trong số những công nhân nói trên đã trả lời báo Chronicle thông qua một người phiên dịch. Tình cảnh ở đây tồi tệ hơn bất cứ nước nào khác mà anh ta từng tới làm việc chẳng hạn như Nga, Hàn Quốc và Lybia. “Không khác gì đi tù.”
Vấn đề ngoại giao được đặt ra về nhân quyền và quyền của người lao động do tờ báo Housten Chronicle tiếp tục luận cứ:
Bộ Ngoại giao Mỹ công bố từ rất lâu trước đây đã chỉ trích chính phủ Việt Nam không bảo vệ công dân của mình khỏi nạn buôn người trong đó bao gồm cả việc “các công ty xuất khẩu lao động của Việt Nam”, hầu hết là những công ty của nhà nước, đã thu những khoản phí bất hợp pháp và quá cao. Những khoản phí này thuộc loại “cao nhất” so với mức phí của “nhân công nước ngoài đến từ tất cả các nước châu Á khác”, điều này khiến cho họ rất dễ bị rơi vào tình trạng bị trói chặt vì nợ nần và lao động cưỡng bách,” Báo cáo năm 2010 về tình hình buôn người do Bộ Ngoại giao công bố đã viết như vậy.- Hết trích.
Như thế, lần này nhà nước csVN sẽ phải muối mặt đối diện với dư luận của người dân Hoa Kỳ đang giơ tay chỉ đích danh kẻ buôn người bất hợp pháp mà nhà nước csVN luôn tìm cách dối trá che đậy. Nếu cuộc kiện cáo này còn kéo dài nơi pháp đình của nước Hoa Kỳ tự do và báo chí có dịp khui thêm ra các ngõ ngách lừa đảo đưa dân VN đi làm nô lệ thì e rằng nhà nước VN phải cúi đầu nhục nhã nhận tội. Một điều ai cũng biết – chính quyền sở tại cũng như người VN sống tại nước ngoài, mọi người rõ ràng nhìn thấy cánh tay vươn dài của một hệ thống buôn người trái phép của csVN chính là những tòa đại sứ, lãnh sự VN ở nước ngoài. Đối với hạng người này chỉ biết có tiền, tiền và tiền…, và họ sẵn sàng hành hạ dân của mình sống ở nước ngoài để nhận được tiền đưa tay. Ai đang ở Mã Lai luôn biết rõ rằng khi gọi điện thoại vào sứ quán VN thì cả ngày không có ai chịu bắt máy nghe.
Tạm kết
Tiền đề viết cho chủ đề bài này: Phải chăng kẻ chiến thắng cam tâm tình nguyện đi làm „lao nô“ cho quân thù? cho thấy điều ấy đã trở thành hiện thực ngay trên quê hương của đế quốc Mỹ. Rồi kẻ chiến thắng, được gọi là cs Bắc Việt phải cúi đầu chịu nhận án xử từ chiếc búa công lý tại toà án Mỹ.
Ký giả Lise Olsen phải là một người rất am tường về Việt Nam cũng như về kế hoạch buôn người trái phép của csVN để tố cáo “kẻ chiến thắng” với những lời lẽ đanh thép. Thiết tưởng rằng nếu chúng ta thêm lời bình luận vào cũng bằng thừa.
Nơi đây chúng ta nên đặt câu hỏi cho người cs Bắc Việt: Đâu rồi chiến thắng thần thánh của 30 tháng 4 năm 1975? Đâu rồi lý tưởng giải phóng đánh đuổi thực dân, chống lại bóc lột của tư bản? Đâu rồi một thiên đường cộng sản xã hội chủ nghĩa luôn hão huyền hứa hẹn cho dân tộc VN từ 66 năm nay?
Không lẽ người cộng sản VN đang phản bội lại lý tưởng cao quý của mình để dã tâm trở thành một kẻ mang chính dân mình bán đi làm nô lệ cho những kẻ tử thù đã thất bại khi đối địch trong cuộc chiến như đế quốc Mỹ và thực dân Pháp, nếu thêm các Đồng Minh tư bản tự do khác vào nữa như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Mã Lai…? Hoặc diễn tả theo cách khác: việc buôn người cho kẻ thù tư bản là nguồn lợi nhuận duy nhất và đang là kế hoạch mũi nhọn cứu nguy nền kinh tế của người chiến thắng, cs Bắc Việt! Nếu đúng như thế thì Lao Nô đi bán sức mình cho bọn “Tư Bản giãy chết” nước ngoài đang trở thành người “Con Cả rất tốt bụng” nằm trong diện kinh tế vĩ mô “giàu nhanh mà nhàn” của nhà nước csVN. Đểu cáng đến mức tận cùng lúc được nghe từ cửa miệng một vị quan to ở Hà Nội phán ra rằng: “Đấy, nhà nước thật lòng muốn giúp dân xóa đói giảm nghèo, cải thiện cuộc sống cho họ!”.
Một câu hát trong bản nhạc Chiều Tây Đô được phép tạm kết cho bài viết này: “… Bao năm giải phóng như thế này phải không anh ?”.
Hà Long
… với vài phút mặc niệm cho ngày 30/4/1975
Nguồn: VRMI

Vụ chết người ở Bình Dương: CA 'gạ tình'?

Vụ chết người ở Bình Dương: CA 'gạ tình'?

Nạn nhân Nguyễn Công Nhựt và vợ Nguyễn Thị Thanh Tuyền trong ngày cưới - ảnh đăng trên trang Dân Luận
Báo Người Lao Động của Việt Nam vừa công bố lời ghi từ băng ghi âm 'gạ tình' của công an mà báo nói do vợ nạn nhân Nguyễn Công Nhựt cung cấp.
Ông Nhựt Bấm chết tại nhà tạm giữ của công an huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương hôm 25/4 sau khi bị bắt hôm 21/4 để điều tra một vụ mất trộm lốp ô tô tại công ty ông làm việc.
Vợ ông, bà Nguyễn Thị Thanh Tuyền, nói với Người Lao Động rằng bà đã ghi lại nội dung hai cuộc điện thoại giữa bà và một người xưng tên Phú trong quá trình điều tra của công an.
Người này gạ gẫm bà Tuyền "trả ơn" bằng cách tới gặp ông ta tại khách sạn để cứu chồng đang bị tạm giam.
BBC không liên hệ được với bà Tuyền qua điện thoại di động trong khi số máy của ông Phú không có người nhấc.
'Vô khách sạn'
Bấm Đoạn ghi cuộc nói chuyện của bà Tuyền và ông Phú mà Người Lao Động công bố có đoạn
- Ông Phú: Trả ơn anh cái gì?
- Bà Tuyền: Thì anh muốn cho cái gì em cho anh cái đó.
- Ông Phú: Giờ anh đòi tầm bậy thì sao?
- Bà Tuyền: Thôi, cái đó không được...
Gặp mấy chỗ đó không có được, đi vô khách sạn gặp.
Người đàn ông tên Phú nói với vợ ông Nguyễn Công Nhựt.
...
- Bà Tuyền: Thì em mời anh uống cà phê để em hỏi thăm chồng em một chút xíu đó mà.
- Ông Phú: ...Gặp mấy chỗ đó không có được, đi vô khách sạn gặp.
Bà Tuyền cũng nói với Người Lao Động bà sợ bị 'trả thù' sau khi công bố hai đoạn ghi âm và đã đi ở một nơi "bí mật".
Bản thân báo Người Lao Động nói công an Bình Dương đã không hợp tác với báo chí trong vụ này.
Trang Bấm Dân Luận nói ông Nhựt và bà Tuyền lập gia đình cách đây hai năm và ông Nhựt là người hiền lành.
Các vụ chết người khi bị công an tạm giam xảy ra ngày một nhiều trong thời gian gần đây khiến một số tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế kêu gọi Việt Nam có hành động.
Một số bình luận viên trên không gian ảo cũng đề nghị phải có camera quay lại các cuộc tiếp xúc của công an và những người bị bắt giữ.

Thanh niên tự thiêu ở trung tâm TP HCM

Tượng đài Bồ tát Thích Quảng Đức ở Quận 3, TP HCM
Vị trí vụ tự thiêu được nói là gần tượng đài Bồ tát Thích Quảng Đức
Tin cho hay công an TP Hồ Chí Minh đang điều tra vụ một thanh niên châm lửa tự thiêu ở ngay trung tâm thành phố hôm thứ Tư 27/04.
Các nhân chứng được dẫn lời trên truyền thông trong nước mô tả cảnh "một nam thanh niên khoảng 30 tuổi dùng xăng tưới lên mình rồi châm lửa đốt".
"Khi thấy mọi người tìm cách dập lửa thì nạn nhân liền lao đầu vào tường nằm bất tỉnh."
Cơ quan chức năng khi xác minh thì được biết thanh niên này tên là Hà Quang Tuấn, sinh năm 1980, quê ở Thái Bình. Anh Tuấn mới chuyển tới sinh sống ở quận 3, TP Hồ Chí Minh, một thời gian ngắn, chưa có công ăn việc làm ổn định.
Anh Hà Quang Tuấn đã được mang đi cấp cứu tại Bệnh viện Sài Gòn (Lê Lợi, Q.1), sau chuyển tới Bệnh viện Chợ Rẫy (Nguyễn Chí Thanh, Q.5). Tuy nhiên, anh đã qua đời lúc 8 giờ sáng thứ Tư vì bỏng nặng và chấn thương sọ não.
Người ta vẫn chưa biết nguyên nhân khiến anh Tuấn tự vẫn là gì.
Báo Việt Nam đưa tin sự việc xảy ra vào khoảng 6 giờ sáng thứ Tư, tại khu vực "trước nhà số 70 đường Cách Mạng Tháng Tám, phường 6, quận 3".
Được biết, vị trí này nằm ngay gần ngã tư Cách Mạng Tháng Tám - Nguyễn Đình Chiểu, nơi có khuôn viên tượng đài Bồ tát Thích Quảng Đức, người đã tự thiêu hồi tháng 6/1963 để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Trong khi đó, các trang mạng cá nhân và blog trong và ngoài nước đang rộ lên những lời đồn đoán về vụ việc này.
Gần đây, cũng đã có một vụ tẩm xăng tự thiêu hôm 17/02 tại Đà Nẵng mà có tin nói là để phản đối chính sách đất đai của chính quyền địa phương. Tuy nhiên BBC chưa kiểm chứng được thông tin này.
“Họ” đã dạy sinh viên những gì? In
Viết bởi Huỳnh Thế Nam   
Thứ ba, 26 Tháng 4 2011 00:00

Huỳnh Thế Nam

Trường chúng em là một trường đại học kĩ thuật lớn của đất nước, kì 2 của sinh viên năm đầu, nhà trường đầu tư 3 tiết Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh một tuần, ngang với số tiết môn Vật lý đại cương. Đặc biệt là bài học về Phòng chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

Dù rất khó bố trí nhưng nhà trường cử thầy phó và trưởng khoa đi đứng lớp tất các giảng đường để giảng dạy bài này, nội dung bài chép trên lớp của một sinh viên được ghi lại dưới đây (không hiểu sao những bài khác không chép cũng chẳng thấy thầy nói gì, nhưng với bài này thầy trưởng khoa mà thấy đứa nào không chép ngồi nói chuyện thì ăn điểm quá trình zero):

“Phòng chống chiến lược diễn biến hòa bình bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam

I. Chiến lược “diễn biến hòa bình bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch” đối với cách mạng Việt Nam

1. Khái niệm

a. Diễn biến hòa bình

- Diễn biến hòa bình (DBHB) là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ, trước là các nước XHCN, từ bên trong, bằng các biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành.

+ Kẻ thù sử dụng mọi thủ đoạn kinh tế-chính trị, văn hoá-xã hội, quốc phòng-an ninh để làm suy yếu từ bên trong đối với các nước XHCN.

+ Chúng kích động mâu thuẫn trong xã hội, tạo ra lực lượng chính trị đối lập núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc…

+ Thực hiện đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập nhằm làm mơ hồ đấu tranh giai cấp.

+ Về kinh tế, chúng khuyến khích phát triển tư nhân hoá.

+ Về văn hoá tư tưởng, chúng khích lệ lối sống tư sản, làm phai nhạt mục tiêu lí tưởng cho sinh viên.

+ Chúng triệt để lợi dụng khai thác những khó khăn, sai sót của đảng và nhà nước trên các lĩnh vực.

b. Bạo loạn lật đổ

- Bạo loạn lật đổ (BLLĐ) là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng phản động hay lực lượng li khai đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ chính quyền ở địa phương hay trung ương.
- Hình thức:
+ Bạo loạn chính trị
+ Bạo loạn vũ trang
+ Kết hợp bạo loạn vũ trang với bạo loạn chính trị

- Quy mô bạo loạn: diễn ra ở các mức độ khác nhau, nhiều nơi, nhiều vùng ở địa bàn có cơ sở chính trị yếu kém.
ABC news

II. Chiến lược DBHB, BLLĐ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam

1. Âm mưu thủ đoạn

- 1950-1975: dùng quân sự nhưng thất bại nặng nề.

- 1975-1995: bao vây cấm vận kinh tế, cô lập về ngoại giao, lợi dụng những khó khăn về kinh tế, hậu quả sau chiến tranh, đẩy mạnh chiến lược DBHB, coi VN là một trọng điểm.
- 1995- nay: trước những thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới, chúng điều chỉnh xoá bỏ cấm vận về kinh tế, bình thường hoá quan hệ ngoại giao để chuyển sang 1 thủ đoạn mới nhằm đẩy mạnh chiến lược DBHB.

2. Mục tiêu của các thế lực thù địch: (thầy giáo bảo nhớ hay quên gì cũng được, chỉ cần nhớ ba chữ “xoá, xoá, lái” là đạt rồi, thầy còn bảo thầy rất tâm đắc vì khi biên tập thầy cho thêm chữ “lái” rất hay vào và đã được xuất bản)

- Xoá bỏ vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản
- Xoá bỏ chế độ XHCN
- Lái các nước XHCN đi theo con đường CNTB và lệ thuộc vào CN đế quốc.

3. Thủ đoạn

- Chúng nuôi dưỡng các tổ chức phản động lưu vong, các phần tử bất mãn chống đối trong nước, gây mất ổn định chính trị.

- Kích động, dụ dỗ, cưỡng ép quần chúng nhân dân biểu tình.

- Yêu cầu đặt ra là cảnh giác kịp thời, phát hiện âm mưu BLLĐ, dự báo tình hình về quy mô, địa điểm và thời gian.

- Khi bạo loạn xảy ra cần nắm vững nguyên tắc: “nhanh gọn, tiên quyết, linh hoạt, đúng đối tượng, sử dụng lực lượng và phương thức phù hợp, không để lan rộng kéo dài”.

III. Mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm và những giải pháp phòng chống chiến lược DBHB, BLLĐ của đảng ta

1. Mục tiêu, nhiệm vụ

a. Mục tiêu

- Làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, chiến lược DBHB, BLLĐ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam.

- Giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hòa bình để xây dựng đất nước.

- Bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia.

b. Nhiệm vụ

- Kiên quyết làm thất bại âm mưu thủ đoạn DBHB, BLLĐ, đây là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ QPAN hiện nay, đồng thời là một nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài.

- Chủ động phát hiện âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, kịp thời tiến công ngay từ đầu, xử lý nhanh chóng, hiệu quả khi có BLLĐ xảy ra.

2. Quan điểm, phương châm

a. Quan điểm

- Đấu tranh chống chiến lược DBHB là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go ác liệt, lâu dài phức tạp trên mọi lĩnh vực.

- Chống chiến lược DBHB là cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ QPAN hiện nay để bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp các khối đại đoàn kết dân tộc của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam trong đấu tranh phòng chống chiến lược DBHB.

b. Phương châm

- Chủ động, kiên quyết, xử lý khôn khéo tình huống, giải quyết hậu quả khi có BL xảy ra.

- Giải quyết các vụ gây rối, không để phát triển thành bạo loạn.

- Xây dựng tiềm lực vững mạnh của đất nước, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân trong nước và quốc tế, kịp thời làm thất bại âm mưu thủ đoạn chống phá đối với cách mạng Việt Nam”.

Trên đây là toàn bộ bài học, được giảng dạy trong tất cả 6 tiết, mọi người tùy ý nhận xét (thực ra nếu 6 tiết mà viết từng này thì bao nhiêu thời gian còn lại làm gì nhỉ? Thầy giáo “chém gió” đủ thứ chuyện từ chuyện gia đình của thầy đển chuyện ngày xửa ngày xưa khi thầy còn là một anh binh nhì…)

Vô tình em còn thấy thằng bạn em nó viết ở cuối bài học là: “Hic hic, hôm nay qua đi, ngày mai nữa là đến ngày 14-2 rồi, không biết nàng đang nghĩ gì nhỉ! Ôi trời, đã học Vật lý đau hết cả đầu lại còn phải chép cái đống này, phù…ù…ù… May quá hết rồi. He he”.
Huỳnh Thế Nam
Nguồn: Dân Làm Báo, ngày 19/04/2011
“Họ” đã dạy sinh viên những gì? In
Viết bởi Huỳnh Thế Nam   
Thứ ba, 26 Tháng 4 2011 00:00

Huỳnh Thế Nam

Trường chúng em là một trường đại học kĩ thuật lớn của đất nước, kì 2 của sinh viên năm đầu, nhà trường đầu tư 3 tiết Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh một tuần, ngang với số tiết môn Vật lý đại cương. Đặc biệt là bài học về Phòng chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

Dù rất khó bố trí nhưng nhà trường cử thầy phó và trưởng khoa đi đứng lớp tất các giảng đường để giảng dạy bài này, nội dung bài chép trên lớp của một sinh viên được ghi lại dưới đây (không hiểu sao những bài khác không chép cũng chẳng thấy thầy nói gì, nhưng với bài này thầy trưởng khoa mà thấy đứa nào không chép ngồi nói chuyện thì ăn điểm quá trình zero):

“Phòng chống chiến lược diễn biến hòa bình bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam

I. Chiến lược “diễn biến hòa bình bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch” đối với cách mạng Việt Nam

1. Khái niệm

a. Diễn biến hòa bình

- Diễn biến hòa bình (DBHB) là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ, trước là các nước XHCN, từ bên trong, bằng các biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành.

+ Kẻ thù sử dụng mọi thủ đoạn kinh tế-chính trị, văn hoá-xã hội, quốc phòng-an ninh để làm suy yếu từ bên trong đối với các nước XHCN.

+ Chúng kích động mâu thuẫn trong xã hội, tạo ra lực lượng chính trị đối lập núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc…

+ Thực hiện đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập nhằm làm mơ hồ đấu tranh giai cấp.

+ Về kinh tế, chúng khuyến khích phát triển tư nhân hoá.

+ Về văn hoá tư tưởng, chúng khích lệ lối sống tư sản, làm phai nhạt mục tiêu lí tưởng cho sinh viên.

+ Chúng triệt để lợi dụng khai thác những khó khăn, sai sót của đảng và nhà nước trên các lĩnh vực.

b. Bạo loạn lật đổ

- Bạo loạn lật đổ (BLLĐ) là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng phản động hay lực lượng li khai đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ chính quyền ở địa phương hay trung ương.
- Hình thức:
+ Bạo loạn chính trị
+ Bạo loạn vũ trang
+ Kết hợp bạo loạn vũ trang với bạo loạn chính trị

- Quy mô bạo loạn: diễn ra ở các mức độ khác nhau, nhiều nơi, nhiều vùng ở địa bàn có cơ sở chính trị yếu kém.
ABC news

II. Chiến lược DBHB, BLLĐ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam

1. Âm mưu thủ đoạn

- 1950-1975: dùng quân sự nhưng thất bại nặng nề.

- 1975-1995: bao vây cấm vận kinh tế, cô lập về ngoại giao, lợi dụng những khó khăn về kinh tế, hậu quả sau chiến tranh, đẩy mạnh chiến lược DBHB, coi VN là một trọng điểm.
- 1995- nay: trước những thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới, chúng điều chỉnh xoá bỏ cấm vận về kinh tế, bình thường hoá quan hệ ngoại giao để chuyển sang 1 thủ đoạn mới nhằm đẩy mạnh chiến lược DBHB.

2. Mục tiêu của các thế lực thù địch: (thầy giáo bảo nhớ hay quên gì cũng được, chỉ cần nhớ ba chữ “xoá, xoá, lái” là đạt rồi, thầy còn bảo thầy rất tâm đắc vì khi biên tập thầy cho thêm chữ “lái” rất hay vào và đã được xuất bản)

- Xoá bỏ vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản
- Xoá bỏ chế độ XHCN
- Lái các nước XHCN đi theo con đường CNTB và lệ thuộc vào CN đế quốc.

3. Thủ đoạn

- Chúng nuôi dưỡng các tổ chức phản động lưu vong, các phần tử bất mãn chống đối trong nước, gây mất ổn định chính trị.

- Kích động, dụ dỗ, cưỡng ép quần chúng nhân dân biểu tình.

- Yêu cầu đặt ra là cảnh giác kịp thời, phát hiện âm mưu BLLĐ, dự báo tình hình về quy mô, địa điểm và thời gian.

- Khi bạo loạn xảy ra cần nắm vững nguyên tắc: “nhanh gọn, tiên quyết, linh hoạt, đúng đối tượng, sử dụng lực lượng và phương thức phù hợp, không để lan rộng kéo dài”.

III. Mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm và những giải pháp phòng chống chiến lược DBHB, BLLĐ của đảng ta

1. Mục tiêu, nhiệm vụ

a. Mục tiêu

- Làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, chiến lược DBHB, BLLĐ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam.

- Giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hòa bình để xây dựng đất nước.

- Bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia.

b. Nhiệm vụ

- Kiên quyết làm thất bại âm mưu thủ đoạn DBHB, BLLĐ, đây là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ QPAN hiện nay, đồng thời là một nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài.

- Chủ động phát hiện âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, kịp thời tiến công ngay từ đầu, xử lý nhanh chóng, hiệu quả khi có BLLĐ xảy ra.

2. Quan điểm, phương châm

a. Quan điểm

- Đấu tranh chống chiến lược DBHB là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go ác liệt, lâu dài phức tạp trên mọi lĩnh vực.

- Chống chiến lược DBHB là cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ QPAN hiện nay để bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp các khối đại đoàn kết dân tộc của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam trong đấu tranh phòng chống chiến lược DBHB.

b. Phương châm

- Chủ động, kiên quyết, xử lý khôn khéo tình huống, giải quyết hậu quả khi có BL xảy ra.

- Giải quyết các vụ gây rối, không để phát triển thành bạo loạn.

- Xây dựng tiềm lực vững mạnh của đất nước, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân trong nước và quốc tế, kịp thời làm thất bại âm mưu thủ đoạn chống phá đối với cách mạng Việt Nam”.

Trên đây là toàn bộ bài học, được giảng dạy trong tất cả 6 tiết, mọi người tùy ý nhận xét (thực ra nếu 6 tiết mà viết từng này thì bao nhiêu thời gian còn lại làm gì nhỉ? Thầy giáo “chém gió” đủ thứ chuyện từ chuyện gia đình của thầy đển chuyện ngày xửa ngày xưa khi thầy còn là một anh binh nhì…)

Vô tình em còn thấy thằng bạn em nó viết ở cuối bài học là: “Hic hic, hôm nay qua đi, ngày mai nữa là đến ngày 14-2 rồi, không biết nàng đang nghĩ gì nhỉ! Ôi trời, đã học Vật lý đau hết cả đầu lại còn phải chép cái đống này, phù…ù…ù… May quá hết rồi. He he”.
Huỳnh Thế Nam
Nguồn: Dân Làm Báo, ngày 19/04/2011
“Họ” đã dạy sinh viên những gì? In
Viết bởi Huỳnh Thế Nam   
Thứ ba, 26 Tháng 4 2011 00:00

Huỳnh Thế Nam

Trường chúng em là một trường đại học kĩ thuật lớn của đất nước, kì 2 của sinh viên năm đầu, nhà trường đầu tư 3 tiết Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh một tuần, ngang với số tiết môn Vật lý đại cương. Đặc biệt là bài học về Phòng chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

Dù rất khó bố trí nhưng nhà trường cử thầy phó và trưởng khoa đi đứng lớp tất các giảng đường để giảng dạy bài này, nội dung bài chép trên lớp của một sinh viên được ghi lại dưới đây (không hiểu sao những bài khác không chép cũng chẳng thấy thầy nói gì, nhưng với bài này thầy trưởng khoa mà thấy đứa nào không chép ngồi nói chuyện thì ăn điểm quá trình zero):

“Phòng chống chiến lược diễn biến hòa bình bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam

I. Chiến lược “diễn biến hòa bình bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch” đối với cách mạng Việt Nam

1. Khái niệm

a. Diễn biến hòa bình

- Diễn biến hòa bình (DBHB) là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ, trước là các nước XHCN, từ bên trong, bằng các biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành.

+ Kẻ thù sử dụng mọi thủ đoạn kinh tế-chính trị, văn hoá-xã hội, quốc phòng-an ninh để làm suy yếu từ bên trong đối với các nước XHCN.

+ Chúng kích động mâu thuẫn trong xã hội, tạo ra lực lượng chính trị đối lập núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc…

+ Thực hiện đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập nhằm làm mơ hồ đấu tranh giai cấp.

+ Về kinh tế, chúng khuyến khích phát triển tư nhân hoá.

+ Về văn hoá tư tưởng, chúng khích lệ lối sống tư sản, làm phai nhạt mục tiêu lí tưởng cho sinh viên.

+ Chúng triệt để lợi dụng khai thác những khó khăn, sai sót của đảng và nhà nước trên các lĩnh vực.

b. Bạo loạn lật đổ

- Bạo loạn lật đổ (BLLĐ) là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng phản động hay lực lượng li khai đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ chính quyền ở địa phương hay trung ương.
- Hình thức:
+ Bạo loạn chính trị
+ Bạo loạn vũ trang
+ Kết hợp bạo loạn vũ trang với bạo loạn chính trị

- Quy mô bạo loạn: diễn ra ở các mức độ khác nhau, nhiều nơi, nhiều vùng ở địa bàn có cơ sở chính trị yếu kém.
ABC news

II. Chiến lược DBHB, BLLĐ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam

1. Âm mưu thủ đoạn

- 1950-1975: dùng quân sự nhưng thất bại nặng nề.

- 1975-1995: bao vây cấm vận kinh tế, cô lập về ngoại giao, lợi dụng những khó khăn về kinh tế, hậu quả sau chiến tranh, đẩy mạnh chiến lược DBHB, coi VN là một trọng điểm.
- 1995- nay: trước những thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới, chúng điều chỉnh xoá bỏ cấm vận về kinh tế, bình thường hoá quan hệ ngoại giao để chuyển sang 1 thủ đoạn mới nhằm đẩy mạnh chiến lược DBHB.

2. Mục tiêu của các thế lực thù địch: (thầy giáo bảo nhớ hay quên gì cũng được, chỉ cần nhớ ba chữ “xoá, xoá, lái” là đạt rồi, thầy còn bảo thầy rất tâm đắc vì khi biên tập thầy cho thêm chữ “lái” rất hay vào và đã được xuất bản)

- Xoá bỏ vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản
- Xoá bỏ chế độ XHCN
- Lái các nước XHCN đi theo con đường CNTB và lệ thuộc vào CN đế quốc.

3. Thủ đoạn

- Chúng nuôi dưỡng các tổ chức phản động lưu vong, các phần tử bất mãn chống đối trong nước, gây mất ổn định chính trị.

- Kích động, dụ dỗ, cưỡng ép quần chúng nhân dân biểu tình.

- Yêu cầu đặt ra là cảnh giác kịp thời, phát hiện âm mưu BLLĐ, dự báo tình hình về quy mô, địa điểm và thời gian.

- Khi bạo loạn xảy ra cần nắm vững nguyên tắc: “nhanh gọn, tiên quyết, linh hoạt, đúng đối tượng, sử dụng lực lượng và phương thức phù hợp, không để lan rộng kéo dài”.

III. Mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm và những giải pháp phòng chống chiến lược DBHB, BLLĐ của đảng ta

1. Mục tiêu, nhiệm vụ

a. Mục tiêu

- Làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, chiến lược DBHB, BLLĐ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam.

- Giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hòa bình để xây dựng đất nước.

- Bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia.

b. Nhiệm vụ

- Kiên quyết làm thất bại âm mưu thủ đoạn DBHB, BLLĐ, đây là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ QPAN hiện nay, đồng thời là một nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài.

- Chủ động phát hiện âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, kịp thời tiến công ngay từ đầu, xử lý nhanh chóng, hiệu quả khi có BLLĐ xảy ra.

2. Quan điểm, phương châm

a. Quan điểm

- Đấu tranh chống chiến lược DBHB là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go ác liệt, lâu dài phức tạp trên mọi lĩnh vực.

- Chống chiến lược DBHB là cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ QPAN hiện nay để bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp các khối đại đoàn kết dân tộc của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam trong đấu tranh phòng chống chiến lược DBHB.

b. Phương châm

- Chủ động, kiên quyết, xử lý khôn khéo tình huống, giải quyết hậu quả khi có BL xảy ra.

- Giải quyết các vụ gây rối, không để phát triển thành bạo loạn.

- Xây dựng tiềm lực vững mạnh của đất nước, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân trong nước và quốc tế, kịp thời làm thất bại âm mưu thủ đoạn chống phá đối với cách mạng Việt Nam”.

Trên đây là toàn bộ bài học, được giảng dạy trong tất cả 6 tiết, mọi người tùy ý nhận xét (thực ra nếu 6 tiết mà viết từng này thì bao nhiêu thời gian còn lại làm gì nhỉ? Thầy giáo “chém gió” đủ thứ chuyện từ chuyện gia đình của thầy đển chuyện ngày xửa ngày xưa khi thầy còn là một anh binh nhì…)

Vô tình em còn thấy thằng bạn em nó viết ở cuối bài học là: “Hic hic, hôm nay qua đi, ngày mai nữa là đến ngày 14-2 rồi, không biết nàng đang nghĩ gì nhỉ! Ôi trời, đã học Vật lý đau hết cả đầu lại còn phải chép cái đống này, phù…ù…ù… May quá hết rồi. He he”.
Huỳnh Thế Nam
Nguồn: Dân Làm Báo, ngày 19/04/2011
TÒA DÂN VIỆT NAM LIÊN TỤC XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH CHỐNG TÀU CỘNG VÀO MỔI THỨ BẢY& CHÚA NHẬT